[tintuc]
II. Một số đặc điểm sinh học cần biết về con dê

1. Đặc điểm về sinh trưởng, phát triển:
Cũng như các gia súc khác, sự sinh trưởng và phát triển của dê tuân theo qui luật giai đoạn, nó phụ thuộc vào giống, tính biệt, điều kiện nuôi dưỡng chăm sóc quản lý và môi trường. Thông thường khối lượng dê sơ sinh là 1,6-3,5kg; 3 tháng đạt 6-12 kg; 6 tháng là 10-21 kg; 12 tháng là 17-30 kg; 18 tháng là 30-40 kg. Dê đực luôn tăng trọng nhanh hơn dê cái. Giai đoạn sơ sinh đến 3 tháng tuổi cường độ sinh trưởng tuyệt đối và tương đối là cao nhất (90- 120 g/con/ngày và 95- 130%), rồi tiếp theo là giai đoạn 3 -6 và 6- 12 tháng (70- 110 g/ngày và 30-50%), giai đoạn 12- 18 tháng cường độ sinh trưởng giảm đi dần dần (20-45 g/con/ngày và 10-20%), giai đoạn 18-24 tháng cường độ sinh trưởng của dê thấp xuống (20-30g/con/ngày), đến giai đoạn 24-30 và 30-36 tháng tuổi, dê bước dần sang tuổi trưởng thành, cường độ sinh trưởng thấp hẳn và thay đổi không rõ rệt.
Kỹ thuật chăn nuôi dê

2. Đặc điểm sinh sản của dê:
Dê là gia súc có khả năng sinh sản nhanh hơn nhiều so với bò và trâu. Thông thường tuổi động dục lần đầu của dê là 6-8 tháng tuổi, tuổi phối giống lần đầu là 8-10 tháng tuổi và tuổi đẻ lứa đầu là 360-420 ngày. Các giống dê khác nhau, điều kiện nuôi dưỡng chăm sóc khác nhau thì tuổi đẻ lứa đầu của dê cũng khác nhau.

III. Bộ máy tiết sữa của dê

1. Cấu tạo bầu vú dê
Bầu vú của dê nằm ở dưới bụng giữa hai chân sau và gồm 2 núm vú. Trông bề ngoài bầu vú là một khối song bao gồm hai tuyến sữa. Giữa hai tuyến sữa có một vách ngăn. Vì thế tuyến sữa bên bầu vú này cạn hết thì tuyến sữa bên bầu vú kia vẫn còn nguyên. Các tuyến tiết sữa của vú bố trí theo tuyến chùm, phân chia thành nhiều thùy, mỗi thùy lại chia thành nhiều tuyến hình túi. Các tuyến này tập trung vào những ống dẫn sữa, các ống này chảy dồn cái nọ vào cái kia và cuối cùng đổ vào bể sữa. Trong vú còn có các mạch máu, dây thần kinh và bạch huyết. Tỷ lệ hệ số trung bình để tạo ra 1 lít sữa cần một lượng máu đi qua tĩnh mạch vú là khoảng trên 300 lít máu.

2. Sản lượng sữa
Sản lượng sữa của dê là khối lượng sữa (kg hoặc lít) sản xuất ra trong một chu kỳ cho sữa. Năng suất sữa là khối lượng sữa tính theo ngày. Năng suất sữa của các giống dê trung bình 300-3000 ml/con/ngày, tuỳ thuộc vào giống, lứa đẻ, thức ăn… ở nước ta, dê Cỏ có sản lượng sữa trung bình là 350 ml/con/ngày và thời gian cho sữa là 90-100 ngày/chu kỳ cho sữa. Dê Bách Thảo cho 1,3 lít/con/ngày với chu kỳ cho sữa là 150 ngày và một năm cho 1,7 chu kỳ cho sữa. Dê Barbari cho 1,0- 1,05 lít/con/ngày với 148- 150 ngày cho sữa/chu kỳ, là giống dê có sản lượng sữa cao nhất: 3,8-3,9 lít/100 kg thể trọng. Dê Jumnapari cho 1,4-1,6 lít/con/ngày với 160- 180 ngày cho sữa.

Người ta thường căn cứ vào các chỉ tiêu như năng suất sữa, thời gian cho sữa/chu kỳ tiết sữa, số lứa đẻ/năm để tính ra sản lượng sữa sản xuất ra của một con dê/năm. Bên cạnh đó người ta còn tính sản lượng sữa/100 kg thể trọng, chi phí thức ăn để sản xuất ra 1 lít sữa để đánh giá khả năng cho sữa của từng con dê sữa.

3. Chất lượng sữa dê
Chất lượng sữa dê phụ thuộc vào giống, tháng cho sữa, thức ăn… Thành phần dinh dưỡng của sữa một số giống dê ở Việt Nam được thể hiện ở bảng 4.

4. Bảng 4. Thành phần dinh dưỡng của sữa một số giống dê nuôi ở Việt Nam (%)

Giống dê VCK Protein Mỡ sữa Khoáng Đường
Bách Thảo 15,04 4,34 5,45 0,96 4,60
Barbari 14,93 4,05 5,60 0,85 4,31
Jumnapari 14,69 3,85 5,50 0,88 4,40
Dê Cỏ 16,06 4,28 6,40 0,81 4,50
Đánh giá giá trị dinh dưỡng của sữa dê, người ta thấy tốt hơn so với sữa bò và trâu. Sữa dê có hàm lượng vitamin, khoáng, protein, đường cao hơn, kích thước hạt mỡ sữa dê lại nhỏ hơn nhiều so với bò và trâu nên khả năng tiêu hoá hấp thu của nó rất tốt. Vì vậy sữa dê là nguồn thức ăn quí cho trẻ em, người ốm và cụ già.

5. Đặc điểm tiêu hoá của dê – cấu tạo bộ máy tiêu hoá của dê
Cũng như các gia súc nhai lại khác, dê có dạ dày 4 túi. Dạ cỏ là phần rất quan trọng trong quá trình tiêu hoá của dê. Khi còn nhỏ dê uống sữa thông qua sự đóng mở của rãnh thực quản để sữa đi thẳng từ miệng qua lá sách xuống dạ múi khế, lúc này thức ăn tiêu hoá chủ yếu ở dạ múi khế nên khối lượng dạ múi khế chiếm tới 70% dạ dày dê, các dạ khác chỉ chiếm 30%. Khi trưởng thành dạ cỏ phát triển mạnh chiếm tới 80% khối lượng dạ dày dê, dạ múi khế chỉ còn lại 7%. Khu hệ vi sinh vật trong dạ cỏ của dê cũng có sự khác biệt so với gia súc nhai lại khác bởi lẽ dê có biên độ thích ứng rộng với mùi vị các loại thức ăn. Nó có thể ăn được nhiều loại thức ăn có nhiều độc tố, cay, đắng mà gia súc khác không ăn được như lá soan, lá xà cừ, lá chàm tai tượng, cỏ bướm…

6. Quá trình tiêu hoá trong dạ dày của dê
Tác dụng của rãnh thực quản: Rãnh thực quản bắt đầu từ thượng vị đến lỗ tổ ong-lá sách. Rãnh thực quản có hình lòng máng. ở gia súc bú sữa, khi bú hoặc uống sữa, cơ mép rãnh thực quản khép chặt lại làm cho rãnh thực quản trở thành một cái ống, sữa và nước chảy thẳng qua dạ lá sách vào dạ múi khế.

Thụ quan của phản xạ khép rãnh thực quản phân bố ở lớp màng nhầy của lưỡi miệng và hầu. Thần kinh truyền vào của phản xạ khép rãnh thực quản là thần kinh lưỡi, thần kinh dưới lưỡi và nhánh hầu của thần kinh sinh ba. Trung khu phản xạ ở hành não liên hệ chặt chẽ với trung khu mút, bú. Thần kinh truyền ra là thần kinh mê tẩu. Khi cắt dây mê tẩu thì phản xạ rãnh thực quản mất đi. Một số các chất hoá học kích thích gây khép rãnh thực quản như NaCl, Na2SO4, đường… con vật càng trưởng thành thì rãnh thực quản càng không thể khép hoàn toàn được, lúc đó rãnh thực quản chỉ còn là cái gờ có tác dụng dẫn nước khi gia súc uống.

7. Tiêu hoá ở dạ cỏ
Dạ cỏ được coi như “Một thùng lên men lớn”. Tiêu hoá ở dạ cỏ chiếm một vị trí rất quan trọng trong quá trình tiêu hoá của gia súc nhai lại. 50% vật chất khô của khẩu phần được tiêu hoá ở dạ cỏ. Trong dạ cỏ, các chất hữu cơ của thức ăn được biến đổi mà không có sự tham gia của men tiêu hoá. Chất xơ và các chất khác của thức ăn được phân giải là nhờ men của vi sinh vật sống cộng sinh trong dạ cỏ.

Môi trường dạ cỏ thuận lợi cho sự phát triển của vi sinh vật là môi trường trung tính (pH: 6,5-7,4) tương đối ổn định nhờ tác dụng trung hoà axit sinh ra do quá trình lên men của nước bọt. Các muối phốt phát và bi-cácbonat trong nước bọt có tác dụng là chất đệm. Nhiệt độ trong dạ cỏ là 38-410C, độ ẩm 80-90%. Dạ cỏ có môi trường hiếm khí, nồng độ ô-xy nhỏ hơn 1%. Sự nhu động của dạ cỏ yếu nên thức ăn dừng lại ở dạ cỏ lâu. Với các điều kiện trên, dạ cỏ là một môi trường thuận lợi cho khu hệ vi sinh vật sinh sản phát triển.

8. Tiêu hoá ở dê con
Dê con sinh ra chỉ bú mẹ, uống sữa và nó không tiêu hoá được thức ăn thô. Dê con khi bú sữa, sữa chảy qua rãnh thực quản xuống thẳng dạ múi khế và sữa sẽ được tiêu hoá ở đây và ở ruột non. Sữa đầu là sữa có nhiều dinh dưỡng và kháng thể cho dê con. Vì vậy sau khi dê đẻ 30 phút đến một giờ phải cho dê con bú được sữa đầu của dê mẹ. Sau ít ngày sinh ra, dê con bắt đầu tập ăn thức ăn. Đến 2-3 tuần tuổi nó đã ăn và tiêu hoá được một lượng nhỏ thức ăn thô xanh dễ tiêu và hệ vi sinh vật dạ cỏ dần dần hình thành. Từ lúc này cần cung cấp cho dê con thức ăn sạch và có chất lượng tốt. Khi đến tuổi cai sữa khu hệ vi sinh vật trong dạ cỏ của dê con cũng còn chưa hoàn hảo. Vì vậy cần chú ý chăm sóc dê con chu đáo để tăng tỷ lệ nuôi sống.

9. Hệ số tiêu hoá thức ăn của dê
Giá trị của thức ăn không những được đánh giá qua kết quả phân tích thành phần dinh dưỡng mà còn được xem loại thức ăn đó có được tiêu hoá và hấp thu được bao nhiêu.

Hệ số tiêu hoá phụ thuộc vào giai đoạn phát triển và các phần của cây thức ăn, loại dê và giống dê, đặc điểm sinh học của cây thức ăn, mức độ nuôi dưỡng dê.

10. Lượng thức ăn ăn được
Dê hơn hẳn các loại gia súc khác là có thể ăn được rất nhiều loại thức ăn. Thậm chí một số loại thức ăn có mùi khác biệt, có độc tố mà gia súc khác không ăn được, nhưng dê vẫn ăn như lá xoan, lá keo tai tượng, lá điền thanh… tuy nhiên lượng thức ăn ăn được phụ thuộc vào nhiều yếu tố và ảnh hưởng rõ rệt đến sức khoẻ và năng suất chăn nuôi. Vì vậy cần thiết phải hiểu được các nhân tố ảnh hưởng đến lượng thức ăn dễ ăn được và tìm ra biện pháp để cho dê ăn được nhiều thức ăn nhất. Có ba nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến lượng thức ăn ăn được như: Nhân tố thức ăn (mùi, vị, thay đổi thức ăn, độ ẩm, khả năng tiêu hoá, kích thước, loại hình), nhân tố môi trường ngoại cảnh (thời gian cho ăn, số lần cho ăn, số lượng thức ăn, sự cạnh tranh với gia súc khác, nhiệt độ, độ ẩm không khí, phương pháp cho ăn) và nhân tố gia súc (tính ngon miệng, ưa thích, tầm vóc gia súc, giai đoạn sản xuất như đang chửa hay tiết sữa).

11. Một số tập tính khác biệt của dê -tập tính ăn uống
Dê có khả năng gặm cỏ như trâu bò nhưng nó thích ăn lá cây, hoa và các cây lùm bụi, họ đậu thân gỗ hạt dài. Dê là con vật thích hoạt động nhanh nhẹn, chúng di chuyển rất nhanh khi ăn xung quanh cây và bứt lá búp ở phần ngon nhất rồi nhanh chóng chuyển sang cây và bụi khác tiếp theo. Trung bình hàng ngày dê đi lại chạy nhảy 10-15km/ngày. Dê thích ăn ở độ cao 0,2-1,2m chúng có thể đứng bằng 2 chân rất lâu để bứt lá, thậm chí còn trèo lên cả cây để chọn phần ngon để ăn. Thức ăn khi để sát mặt đất chúng rất khó ăn, thường phải quỳ chân trước xuống để ăn. Môi và lưỡi dê rất linh hoạt để vơ ngoạm thức ăn và chọn loại thức ăn nào nó ưa thích nhất, thức ăn rơi vãi dê thường bỏ không ăn lại. Lượng thức ăn ăn được trên 100kg trọng lượng của dê thường là 2,5- 3kg VCK/ngày. Dê là con vật sử dụng nước hiệu quả hơn nhiều so với trâu bò, nó là con vật có khả năng chịu khát rất giỏi. Devendra 1967 cho biết dê nặng 18-20 kg thì một ngày cần uống 680 ml nước, trong đó 544 ml uống từ 7 giờ sáng đến 19 giờ tối và 136 ml uống từ 7 giờ tối đến giờ sáng ở mùa hè, mùa xuân lượng nước uống của dê chỉ là 454 ml.

12. Tính khí bất thường, hiếu động, ương bướng và khôn ngoan của dê
Dê là loài vật có tính khí bất thường và hiếu động. Dê rất phàm ăn, nhưng luôn luôn tìm thức ăn mới. Chúng nếm mỗi thứ một chút rồi cuối cùng chẳng ưng ý một món nào cả. Dê vừa chạy nhảy vừa leo trèo rất giỏi. Chúng có thể leo lên những vách núi, mỏm đá cạnh vực sâu cheo leo nguy hiểm. Với sự nhanh nhẹn khéo léo, chúng có thể di chuyển dễ dàng trên những mỏm đá cheo leo nhất. Trong trường hợp cần thiết con dê đực trưởng thành có thể đứng rất lâu trên một mỏm đá bên bờ vực thẳm với diện tích chỉ chừng 200-300 cm2. Bám móng vào những gò đá chỉ hơi nhô lên một chút dê có thể leo lên những sườn dốc gần như thẳng đứng. Ngay cả dê con chỉ mới 12-15 ngày tuổi cũng đã có thể nhảy lên những mỏm đá cao 1-2 m.

Dê thường chọi nhau rất hăng, không riêng gì dê đực mà cả dê cái cũng vậy. Chúng dùng sừng húc vào mặt, vào đầu, vào bụng địch thủ. Những con dê không sừng thì húc cả đầu, cuộc chiến đấu có khi kéo dài đến nửa giờ. Tính thích húc nhau là do tính hung hăng hay gây sự, hoặc do đùa nhau, hoặc là do cử chỉ của một con dê trong đàn mà chúng cho là khiêu khích. Đôi khi do buồn sừng hay một lý do nào đó mà dê tự nhiên chuẩn bị tư thế chiến đấu, nó lùi lại lấy đà rồi cúi đầu lao thẳng vào một bụi cây hoặc húc đầu vào một mô đất. Khi gặp nguy hiểm, đôi khi dê tỏ ra rất hăng, liều mạng; nhưng nhiều khi lại tỏ ra rất nhát dễ hoảng sợ trước một vật lạ. Nhiều người nuôi dê phàn nàn cho là dê ương bướng. Tuy nhiên dê cũng là con vật rất khôn ngoan, dê rất mến người chăm sóc chúng. Dê có khả năng nhớ được nơi ở của mình cũng như tên của nó khi con người đặt cho. Nó nhận biết được người chủ của chúng từ xa về và thường kêu ầm lên để đón chào. Nhiều lúc dê phạm lỗi bị phạt đòn thì không kêu, nhưng nếu bị đánh bất công dê kêu be be ầm ĩ để phản đối.

13. Tập tính theo dàn của dê
Dê thường sống tập trung thành từng đàn. Mỗi con trong đàn có một vị trí xã hội nhất định. Những con mới nhập đàn thường phải thử sức để xác định vị trí xã hội của nó. Chọi nhau là hình thức thử sức rất phổ biến trong đàn dê. Con ở vị trí ” xã hội thấp” phải phục tùng và trong sinh hoạt phải nhường con ở vị trí xã hội cao. Trong đàn dê thường có con dê đầu đàn dẫn đầu trên bãi chăn, đàn dê di chuyển gặm cỏ theo con đầu đàn, ở trong đàn dê rất yên tâm. Khi bị tách khỏi đàn dê tỏ ra sợ hãi. Dê thích ngủ nghỉ trên những mô đất hoặc trên những tảng đá phẳng và cao. Dê ngủ nhiều lần trong ngày, nhiều lúc trong khi ngủ dê vẫn nhai lại, khứu giác và thính giác của dê rất phát triển nên dê rất nhạy cảm với tiếng động dù nhỏ như có tiếng chân người đi đến gần chuồng, chúng phát hiện được ngay và lao xao kêu khe khẽ như thông báo cho nhau biết. Dê còn có khả năng tự chịu đựng, dấu bệnh. Khi dê ốm thường vẫn cố theo đàn cho đến khi kiệt sức ngã quỵ xuống mới chịu, vì vậy phải thật quan tâm tỉ mỉ mới phát hiện được dê mới mắc bệnh.

Nguồn:  Nhà xuất bản nông nghiệp – Hà Nội 2000

Đinh Văn Bình – TS. Nguyễn Quang Sức

TRUNG TÂM GIỐNG TIẾN ĐẠT
👉Luôn đồng hành, chia sẻ và cung cấp dê giống, dê nuôi vỗ béo đến các tỉnh thành trên cả nước. đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của khách hàng. 
👉Không ngừng nâng cao chất lượng, uy tín và sức cạnh tranh của Trại Dê Tiến Đạt.
👉Nghiên cứu thị trường, xu hướng tiêu dùng để phát triển và mở rộng hơn nữa quy mô và chất lượng của Trại Dê Tiến Đạt.
👉Luôn luôn lắng nghe, tìm hiểu nhu cầu, tiếp thu ý kiến của khách hàng và đồng hành cùng nhà nông, tư vấn hậu vận chuyển để các bạn có thể chăn nuôi tốt.
🚘Dù bạn ở Bắc hay Nam, Trại Dê Tiến Đạt vẫn có thể giao hàng đến tận nhà, cung cấp con giống chất lượng với giá cả hợp lý, . Các bạn sẽ không phải lo lắng về bất kỳ điều gì khi hợp tác cùng Trại Dê Tiến Đạt, Trại Dê Tiến Đạt sẽ luôn đồng hành và hỗ trợ các bạn bất kỳ khi nào các bạn cần.
☎️📞☎️Mọi thắc mắc vui lòng gọi về số điện thoại: Sđt: 0938 89 70 99 để được tư vấn miễn phí sớm nhất.
[/tintuc]

Nhận xét

Có thể bạn quan tâm